Hình thức đặt cọc đồng sở hữu được khách hàng ưa chuộng vì an toàn, ổn định nhưng vụ án Nguyễn Hà Thanh lại tiềm ẩn những rủi ro pháp lý có thể dẫn đến tiền mất tật mang…
Ngày 26/12, TAND Hà Nội quyết định hoãn phiên tòa xét xử vụ án Nguyễn Hà Thanh lừa đảo chiếm đoạt tiền của 3 ngân hàng và cá nhân với số tiền hơn 433 tỷ đồng. Nguyên nhân là có một số bị cáo và người có quyền lợi, liên quan vắng mặt. Việc hoãn phiên tòa nhằm bảo vệ quyền lợi của các bên.
Trong vụ án này, 17 cán bộ ngân hàng bị khởi tố về hành vi vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến hoạt động ngân hàng. Nhiều cán bộ bị cáo buộc đã giúp sức cho Thanh trong tất cả các khâu từ gửi tiền tiết kiệm, thẩm định cho vay, nhận giải ngân và tất toán khoản vay thuận lợi.
Theo quy định, ngân hàng chỉ áp dụng hình thức hợp đồng tiền gửi đối với khách hàng doanh nghiệp, không áp dụng với khách hàng cá nhân. Tuy nhiên, nhân viên lại đưa ra 2 văn bản nữa là hợp đồng đặt cọc và giấy đề nghị phong tỏa.
Cáo trạng thể hiện, để có tiền kinh doanh, Thanh đã dùng nhiều thủ đoạn huy động vốn từ các tổ chức, cá nhân dưới hình thức gửi tiết kiệm đồng sở hữu.
Để thực hiện ý định này, Thanh tìm gặp Nguyễn Thị Thu Hương, Trưởng phòng Quan hệ khách hàng doanh nghiệp, Phòng giao dịch Đông Đô, Ngân hàng Việt Á nói gửi một số tiền lớn, sau đó cầm cố số tiền gửi để vay ngân hàng. .
Ở khâu gửi tiết kiệm, Quản Trọng Đức, Giám đốc chi nhánh Đông Đô đã đồng ý cho Hương soạn thảo, phát hành thêm hợp đồng tiền gửi và yêu cầu phong tỏa. Do 2 văn bản này được ban hành trái pháp luật nên Đức đã sửa nội dung trên mẫu “Hợp đồng tiền gửi có kỳ hạn” thành nội dung thông tin khách hàng cá nhân…
Khi Thanh yêu cầu nộp tiền, Hương thông báo ra quầy và yêu cầu giao dịch viên in, ký xác nhận trước các chứng từ. Nhân viên làm theo hướng dẫn trên vì Đức đã phổ biến cho Thành là “khách hàng VIP, phải hỗ trợ tối đa”.
Việc ra 2 văn bản này để tặng cho những người đồng sở hữu. Thanh và Hương giải thích với họ rằng “ngân hàng đã phong tỏa hợp đồng tiền gửi có kỳ hạn nên nếu hai người đồng sở hữu không có mặt thì không thể rút được tiền”. Trên thực tế, ngân hàng đã cấp sổ tiết kiệm cho khoản tiền gửi này.
Đến giai đoạn cấp tín dụng, Thanh thế chấp sổ tiết kiệm để vay tiền ngân hàng với số tiền lên đến 95% giá trị sổ tiết kiệm. Trên thực tế, người đồng sở hữu không biết việc thế chấp sổ tiết kiệm này. Thành và đồng phạm giả mạo chữ ký của các đồng sở hữu.
Ở khâu giải ngân vốn vay, Ngân hàng Việt Á đã ban hành Chỉ thị số 028 ngày 26/9/2018 về việc tăng cường giám sát việc chấp hành giao dịch tiền mặt tại quầy trên toàn hệ thống, quy định khoản vay trên 100 triệu đồng phải được giải ngân vào tài khoản của khách hàng vay. .
Vì vậy, Thành nhờ Hương lập tài khoản thanh toán đứng tên đồng sở hữu để nhận tiền nhưng thực tế các đồng sở hữu không biết có tài khoản này.
Về việc tất toán khoản vay, để che giấu hành vi sai phạm, Hương và Đức còn giúp sức cho Thành khống khoản vay đến hạn bằng cách lập chứng từ thu khống…
Theo Viện kiểm sát, ngày 28/3/2018, Hương biết Thanh giả mạo chữ ký của các đồng sở hữu nhưng vẫn lập hợp đồng đặt cọc với các đồng sở hữu, yêu cầu phong tỏa tài sản bảo đảm; mặt khác che giấu việc các đồng sở hữu ngân hàng phát hành sổ tiết kiệm…
Gửi tiết kiệm đồng sở hữu có nhiều ưu điểm nên đối với hình thức này, các ngân hàng có nhiều quy định phức tạp hơn để đảm bảo quyền và lợi ích của khách hàng.
Theo Quy chế tiền gửi tiết kiệm ban hành theo Quyết định số 14/VBHN-NHNN, chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm là người đứng tên trên sổ tiết kiệm, còn đồng sở hữu sổ tiết kiệm là cá nhân thứ hai trở lên. lên có thể đứng tên trên sổ tiết kiệm.
Thủ tục nhận và chi trả tiền gửi tiết kiệm trong trường hợp có hợp đồng của chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm do tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm quy định phù hợp với các văn bản pháp luật có liên quan.
Người gửi tiền là chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm, đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm được chuyển quyền sở hữu thẻ tiết kiệm, để thừa kế số tiền gửi tiết kiệm, ủy quyền cho người khác thực hiện giao dịch. rút tiền gửi tiết kiệm theo quy định của pháp luật.
Người gửi tiền là chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm, đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm được cầm cố thẻ tiết kiệm để vay vốn tại tổ chức tín dụng nếu được tổ chức tín dụng đó chấp thuận.
Theo quy định, tổ chức nhận tiền có trách nhiệm giữ bí mật số dư tiền gửi của chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm theo quy định của pháp luật và đảm bảo an toàn tiền gửi cho khách hàng. chủ tiền gửi tiết kiệm hoặc đồng chủ sở hữu tiền gửi tiết kiệm. Chịu trách nhiệm về những thiệt hại, vi phạm, lạm dụng tiền gửi tiết kiệm do lỗi của tổ chức nhận tiền gửi tiết kiệm.
Tuy nhiên, vụ việc trên cũng cho thấy những rủi ro pháp lý khi nhân viên ngân hàng “giúp sức” cho bên ngoài vi phạm quy định ngân hàng. Các đồng sở hữu yêu cầu ngân hàng trả nợ gốc và lãi.