doanh nghiệp nhà nước – Doanhnhannews.com https://doanhnhannews.com Trang tin tức Doanh Nhân Thu, 21 Aug 2025 15:30:15 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/media/2025/08/doanhnhannews.svg doanh nghiệp nhà nước – Doanhnhannews.com https://doanhnhannews.com 32 32 Mức thưởng cho Ban điều hành doanh nghiệp nhà nước: Lương ai làm cơ sở tính? https://doanhnhannews.com/muc-thuong-cho-ban-dieu-hanh-doanh-nghiep-nha-nuoc-luong-ai-lam-co-so-tinh/ Thu, 21 Aug 2025 15:30:12 +0000 https://doanhnhannews.com/muc-thuong-cho-ban-dieu-hanh-doanh-nghiep-nha-nuoc-luong-ai-lam-co-so-tinh/

Ông Đỗ Thế Hiển Mới đây đã lên tiếng về việc xác định tiền thưởng cho các thành viên Ban điều hành tại các doanh nghiệp nhà nước. Phát biểu của ông liên quan đến Nghị định số 44/2025/NĐ-CP và Thông tư số 003/2025/TT-BNV, trong đó quy định cụ thể về việc tính toán tiền lương và thưởng cho Ban điều hành.

Cụ thể, theo các quy định hiện hành, tiền lương của Ban điều hành làm việc theo chế độ bổ nhiệm sẽ được dùng làm cơ sở để xác định tiền thưởng. Mức tiền lương này sẽ được lấy từ quỹ tiền lương thực hiện của người lao động và Ban điều hành theo quy chế trả lương do mỗi doanh nghiệp ban hành.

Ông Hiển đặt ra câu hỏi quan trọng liên quan đến việc xác định mức lương cơ sở này. Ông thắc mắc liệu mức lương của chỉ Ban điều hành hay mức lương của toàn bộ người lao động, bao gồm cả Ban điều hành, sẽ được sử dụng để xác định mức thưởng. Ông cũng bày tỏ lo ngại rằng nếu sử dụng mức lương của người lao động làm cơ sở tính thưởng cho Ban điều hành, thì mức thưởng có thể thấp hơn nhiều so với trước khi Nghị định số 44/2025/NĐ-CP được ban hành.

Trước những thắc mắc này, Bộ Nội vụ đã có lời giải đáp rõ ràng. Theo khoản 2 Điều 26 Nghị định số 44/2025/NĐ-CP, quỹ thưởng của thành viên Ban điều hành làm việc theo chế độ bổ nhiệm được xác định, quản lý và sử dụng theo quy định của Chính phủ về đầu tư vốn nhà nước vào doanh nghiệp và quản lý, sử dụng vốn, tài sản tại doanh nghiệp.

Bộ Nội vụ khẳng định rằng tiền lương của Ban điều hành làm việc theo chế độ bổ nhiệm làm cơ sở xác định tiền thưởng là mức tiền lương từ quỹ tiền lương thực hiện của người lao động và Ban điều hành theo quy chế trả lương do doanh nghiệp ban hành. Điều này có nghĩa là cả mức lương của người lao động và Ban điều hành sẽ được sử dụng để xác định tiền thưởng cho Ban điều hành.

Như vậy, từ lời giải đáp của Bộ Nội vụ, có thể thấy rằng việc xác định tiền thưởng cho Ban điều hành doanh nghiệp nhà nước sẽ được thực hiện một cách minh bạch và rõ ràng hơn. Mức tiền lương thực tế của cả người lao động và Ban điều hành sẽ được sử dụng để tính toán tiền thưởng, giúp đảm bảo công bằng và hợp lý trong chính sách đãi ngộ cho Ban điều hành tại các doanh nghiệp nhà nước.

Chi tiết hơn về vấn đề liên quan.

Các quy định pháp luật Việt Nam về vấn đề trả lương

]]>
Đề xuất đánh thuế căn nhà thứ hai để hạ nhiệt giá bất động sản https://doanhnhannews.com/de-xuat-danh-thue-can-nha-thu-hai-de-ha-nhiet-gia-bat-dong-san/ Mon, 28 Jul 2025 11:48:57 +0000 https://doanhnhannews.com/de-xuat-danh-thue-can-nha-thu-hai-de-ha-nhiet-gia-bat-dong-san/

Đại học Kinh tế Quốc dân (NEU) vừa gửi kiến nghị đến Chính phủ và các bộ ngành liên quan về các vấn đề kinh tế đang được quan tâm hiện nay. Trong đó, đổi mới mô hình tăng trưởng để tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế là một trong năm vấn đề được NEU đề cập đến.

Cụ thể, các chuyên gia của NEU cho rằng, bên cạnh các giải pháp như tinh giảm hệ thống doanh nghiệp nhà nước và nâng cao chất lượng thể chế, tìm kiếm các nguồn thu bền vững mới để thay thế một phần cho các nguồn thu truyền thống cũng là yếu tố quan trọng. Việt Nam nên cân nhắc đánh thuế căn nhà thứ hai trở đi nhằm hạn chế tình trạng đầu cơ và găm giữ bất động sản. Đây là nguyên nhân khiến tình trạng ‘đô thị ma’ xuất hiện, kéo theo sự khan hiếm nguồn cung trên thị trường thứ cấp.

Nhóm nghiên cứu NEU đánh giá, khi chi phí sở hữu căn nhà thứ hai tăng lên do thuế, những chủ thể găm giữ sẽ có xu hướng sử dụng hiệu quả hơn bằng cách buộc phải bán bớt hoặc cho thuê, hoặc đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó, giúp tăng nguồn cung và góp phần hạ nhiệt giá nhà trên thị trường, từ đó hỗ trợ thị trường bất động sản trở nên lành mạnh cũng như tránh lãng phí tài nguyên.

Thứ hai, sửa đổi/cắt giảm gánh nặng thuế thu nhập cá nhân nên được thực hiện trong bối cảnh căng thẳng thương mại gia tăng và đối mặt với nguy cơ các quốc gia như Mỹ áp đặt thuế quan cao. Mức giảm trừ gia cảnh chậm được điều chỉnh, không theo kịp lạm phát và chi phí sinh hoạt thực tế, cũng như bậc thuế quá sát nhau khiến nhiều người dân, đặc biệt là tầng lớp trung lưu và thu nhập thấp phải chịu thuế ở mức cao ngay cả khi thu nhập chỉ vừa đủ để trang trải cuộc sống.

Chính vì vậy, nếu điều chỉnh giảm sắc thuế này sẽ giúp tăng thu nhập khả dụng cho người dân, từ đó khuyến khích người dân tăng chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ trong nước và bù đắp một phần sụt giảm từ hoạt động xuất khẩu.

Thứ ba, Việt Nam nên áp dụng chính sách ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp dựa trên tỷ lệ nội địa hóa của các doanh nghiệp xuất khẩu. Nhóm nghiên cứu NEU đánh giá đây là một công cụ hiệu quả để phát triển công nghiệp phụ trợ và tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế trước các biến động thương mại toàn cầu.

Thông qua việc chủ động nguồn cung trong nước, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam sẽ giảm thiểu được rủi ro bị ảnh hưởng từ các chính sách thương mại quốc tế bất lợi, đảm bảo tính ổn định và bền vững cho hoạt động xuất khẩu.

Năm chủ đề được các chuyên gia NEU kiến nghị lên Chính phủ bao gồm: (i) Đổi mới mô hình tăng trưởng kết hợp cải cách thể chế nhằm tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế; (ii) Hoàn thiện tư duy và cách thức nhìn nhận khu vực kinh tế tư nhân; (iii) Cải thiện chất lượng đầu tư công hướng tới mục tiêu tăng trưởng trung hạn; (iv) Tăng cường phát triển nền kinh tế số và kinh tế xanh và (v) Phát triển các vùng kinh tế động lực nhằm tạo đà cho tăng trưởng kinh tế.

Cũng tại bản kiến nghị, nhóm nghiên cứu NEU nhận định, từ năm 2011 đến nay, so với các khu vực kinh tế khác, khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam còn tồn tại 3 hạn chế bao gồm: (i) có hiệu quả kinh doanh thấp nhất; (ii) có trình độ khoa học công nghệ thấp nhất và (iii) thu nhập của người lao động thấp nhất.

Đối mặt với thực trạng khu vực kinh tế tư nhân đang có biểu hiện ‘chững lại’ về mặt tốc độ, nhóm nghiên cứu đề xuất Chính phủ cần hoàn thiện chính sách thuế bình đẳng cho các doanh nghiệp tư nhân so với các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI.

Thứ nhất, cần thực hiện nhanh chóng áp dụng chính sách thuế tối thiểu toàn cầu. Theo các nhà khoa học NEU, mức thuế thu nhập doanh nghiệp phổ biến ở Việt Nam hiện nay là 20%. Tuy nhiên, thông qua các chính sách ưu đãi, khu vực FDI được hưởng mức thuế suất trung bình vào khoảng 12%, đồng nghĩa chênh lệch khoảng 2,7% so với thuế tối thiểu toàn cầu.

Thứ hai, phải giải quyết hợp lý vấn đề liên quan đến chuyển giá của các doanh nghiệp FDI. Theo đó, cần ngăn chặn hiện tượng các doanh nghiệp FDI hoạt động kinh doanh có lãi tại Việt Nam nhưng tìm cách chuyển thành chi phí nguyên nhiên vật liệu, thiết bị, tài sản trí tuệ, dịch vụ nhập khẩu với giá khá cao. Trong đó, người xuất khẩu chính là công ty mẹ ở nước ngoài để có được khoản thu lời lớn.

Cuối cùng, xóa bỏ tình trạng trốn thuế của các doanh nghiệp FDI thông qua chính sách chuyển giá bất hợp lý. Nhóm nghiên cứu NEU cho rằng cơ quan chức năng cần nghiên cứu áp dụng các biện pháp phòng chống trốn và tránh thuế đang áp dụng tại các nước tiên tiến để giải quyết vấn đề trên.

Từ năm 2011 đến nay, lợi nhuận trước thuế bình quân của một doanh nghiệp tư nhân chỉ bằng 0,52% của doanh nghiệp nhà nước và gần 3,1% của doanh nghiệp FDI, đồng thời năng suất lao động chỉ bằng 34% năng suất lao động của khu vực doanh nghiệp nhà nước và khoảng 69% năng suất lao động của khu vực FDI.

Bên cạnh đó, theo số liệu từ Cục Thống kê (2023), nếu xét các doanh nghiệp chế biến chế tạo khu vực tư nhân hiện nay, tỷ lệ sử dụng công nghệ lần lượt là 12%, 23% và 56% (cao, trung bình và thấp). Ngoài ra, thu nhập bình quân của người lao động doanh nghiệp tư nhân chỉ bằng 57,1% doanh nghiệp nhà nước, 78,4% doanh nghiệp FDI.

]]>
Kiểm toán Nhà nước hé mở loạt sai phạm tại doanh nghiệp Nhà nước https://doanhnhannews.com/kiem-toan-nha-nuoc-he-mo-loat-sai-pham-tai-doanh-nghiep-nha-nuoc/ Thu, 24 Jul 2025 09:32:52 +0000 https://doanhnhannews.com/kiem-toan-nha-nuoc-he-mo-loat-sai-pham-tai-doanh-nghiep-nha-nuoc/

Kết quả kiểm toán doanh nghiệp nhà nước cho thấy nhiều tập đoàn, tổng công ty có khoản lỗ lớn. Kiểm toán Nhà nước vừa báo cáo Quốc hội về kết quả kiểm toán chủ yếu năm 2024. Theo đó, kết quả kiểm toán doanh nghiệp nhà nước cho thấy 9/9 tập đoàn, tổng công ty được kiểm tra đều có lãi, một số đơn vị đạt tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu trên 10%, thậm chí vượt 20%. Tuy nhiên, việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản của các doanh nghiệp còn nhiều hạn chế.

Phần lớn các đơn vị còn sai sót trong công tác hạch toán, kê khai nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước. Qua kiểm toán, điều chỉnh tài sản, nguồn vốn, doanh thu, chi phí. Một số đơn vị chưa xây dựng quy chế quản lý tiền, quản lý dòng tiền chưa hiệu quả. Việc quản lý nợ chưa chặt chẽ, còn phát sinh nợ phải thu quá hạn, khó đòi lớn. Tỷ lệ đối chiếu thấp. Trong khi đó, việc tạm ứng tồn đọng nhiều năm chưa thu hồi; bán hàng, đặt cọc cho nhà cung cấp không có bảo lãnh, tài sản đảm bảo; trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi không đúng quy định…

Bên cạnh đó, hệ số nợ phải trả trên vốn chủ sở hữu cao; chưa chi trả đầy đủ cổ tức; chưa được góp đủ vốn điều lệ hoặc có vốn chủ sở hữu lớn hơn vốn điều lệ nhưng chưa được phê duyệt phương án tăng vốn. Thậm chí, một số đơn vị bị đưa vào diện giám sát tài chính đặc biệt. Kết quả kiểm toán cũng cho thấy một số đơn vị đầu tư tài chính hiệu quả chưa cao, hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả, thua lỗ.

Cụ thể, Công ty mẹ – TKV có 4 khoản đầu tư vào công ty con có lỗ lũy kế tại thời điểm 31/12/2023 là hơn 412 tỷ đồng. Vốn góp của công ty mẹ là hơn 1.759 tỷ đồng. Tổng công ty khoáng sản TKV có 1 khoản đầu tư không bảo toàn vốn và 3 khoản đầu tư vào công ty con chưa chia cổ tức do lợi nhuận sau phân phối không đủ chia cổ tức hoặc có lãi nhưng còn lỗ lũy kế.

Công ty mẹ – HUD có Công ty CP Đầu tư xây dựng đô thị Việt Nam lỗ lũy kế 14,4 tỷ đồng… Nhiều khoản đầu tư của tập đoàn, tổng công ty vào công ty liên doanh, liên kết, đầu tư dài hạn khác bị thua lỗ. Cụ thể, Công ty mẹ – Vinapharm có CTCP Dược phẩm Trung ương 2 ghi nhận lỗ lũy kế hơn 122 tỷ đồng tính đến 31/12/2023. CTCP Dược Davina lỗ 18,39 tỷ đồng.

Công ty mẹ – HUD có CTCP Sài Gòn – Rạch Giá lỗ lũy kế gần 124,5 tỷ đồng. CTCP Khách sạn và du lịch Bảo Việt lỗ hơn 73 tỷ đồng. Công ty mẹ – Vinataba có 3/6 công ty liên doanh, liên kết lỗ lũy kế 225,6 tỷ đồng và một khoản đầu tư dài hạn khác là 13,18 tỷ đồng.

Tổng công ty Sonadezi có CTCP Cấp nước Đồng Nai đầu tư góp vốn vào CTCP Cấp nước Gia Tân 50 tỷ đồng. Chiếm 10,47% vốn điều lệ, phải trích lập dự phòng 16,47 tỷ đồng. Công ty mẹ Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) có một khoản đầu tư phải trích lập dự phòng 100% tương ứng 55,87 tỷ đồng.

Ngoài ra, kết quả kiểm toán Chuyên đề việc thực hiện quyền, trách nhiệm của đại diện chủ sở hữu theo quy định Nghị định số 10/2019/NĐ-CP giai đoạn 2022-2023 tại Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp (UBQLVNN) cho thấy, đến tháng 8/2024 còn 3/19 đề án cơ cấu lại doanh nghiệp giai đoạn 2021-2025. Hai/19 kế hoạch sản xuất kinh doanh và đầu tư giai đoạn 2021-2025 và 4/19 chiến lược phát triển của các doanh nghiệp chưa được phê duyệt.

Có đến 10/12 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước chưa được đánh giá, xếp loại năm 2023 và 1 doanh nghiệp chưa được đánh giá, xếp loại năm 2022. Chưa hoàn thành phê duyệt quyết toán cổ phần hóa theo quy định. Đáng chú ý, theo báo cáo tài chính năm 2023 của các đơn vị, lỗ lũy kế tại ngày 31/12/2023 của Tổng công ty Cà phê Việt Nam là 738,8 tỷ đồng. Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) lỗ lũy kế 50.611 tỷ đồng. Tập đoàn Hoá chất Việt Nam lỗ lũy kế 884,39 tỷ đồng.

Kết quả kiểm toán chuyên đề tại Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) cũng cho thấy, SCIC đã thoái vốn tại 37/77 doanh nghiệp với tổng giá vốn là 2.801/12.821 tỷ đồng. Bằng 21,8% kế hoạch 5 năm trong giai đoạn 2021-2023. SCIC đã bán hết vốn tại 50 doanh nghiệp nhưng chưa thu hồi hết cổ tức, lợi nhuận được chia 23,8 tỷ đồng.

Ngoài ra, quá trình bán vốn còn trường hợp xác định giá trị quyền sử dụng đất để tính giá trị vốn nhà nước không đúng quy định hoặc đơn vị tư vấn xác định chưa đầy đủ giá trị vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp. Một số khoản SCIC trực tiếp đầu tư cũng không hiệu quả. Khi có 3/14 doanh nghiệp lỗ lũy kế tại ngày 31/12/2023 là 32.581,9 tỷ đồng; 2/14 doanh nghiệp không chia cổ tức, lợi nhuận trong giai đoạn 2019-2023.

SCIC chưa hoàn tất cổ phần hóa tại một số đơn vị. Chưa tiếp nhận đầy đủ quyền đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại 5 doanh nghiệp do hai bộ bàn giao; chưa xây dựng kế hoạch và giải pháp thực hiện tái cơ cấu nhằm nâng cao hiệu quả quản lý tại một số doanh nghiệp tiếp nhận.

Đến 31/12/2023, SCIC chưa phê duyệt chiến lược, kế hoạch đầu tư phát triển 5 năm giai đoạn 2021-2025 của 4/4 doanh nghiệp do đơn vị này nắm giữ 100% vốn điều lệ. Việc xây dựng phương án tăng vốn điều lệ trình cấp có thẩm quyền của SCIC cũng chưa đầy đủ, rõ ràng; người đại diện vốn lập và gửi báo cáo giám sát tài chính chậm.

Một số quy định liên quan đến thẩm quyền, trách nhiệm của UBQLVNN và SCIC chưa thống nhất như việc bổ sung vốn, thoái vốn tại công ty con, công ty liên kết; vốn nhà nước, vốn doanh nghiệp tại các doanh nghiệp do SCIC nhận bàn giao.

]]>
Đẩy mạnh mô hình cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp https://doanhnhannews.com/day-manh-mo-hinh-co-quan-dai-dien-chu-so-huu-von-nha-nuoc-tai-doanh-nghiep/ Mon, 26 Dec 2022 16:35:00 +0000 https://www.doanhnhannews.com/?p=1554

Tổng doanh thu của 19 tập đoàn, tổng công ty năm 2022 tăng 33% so với năm 2021; lợi nhuận trước thuế của 18 tập đoàn, tổng công ty tăng 17% so với cùng kỳ. Kết quả khả quan này cho thấy mô hình cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước đầu tư tại doanh nghiệp đã phát huy hiệu quả sau hơn 4 năm hoạt động…

Xung quanh vấn đề này, VnEconomy đã trao đổi với ông Nguyễn Hoàng Anh, Ủy viên Trung ương Đảng, Chủ nhiệm Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.

Thưa ông, tổng doanh thu của 19 tập đoàn, tổng công ty năm 2022 ước đạt 1,12 triệu tỷ đồng, tăng 14% kế hoạch và tăng 33% so với năm 2022. Ông có hài lòng với kết quả khả quan này?

Trước khi thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, các bộ ngành, địa phương vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước, vừa là đại diện chủ sở hữu nhà nước đối với doanh nghiệp.

Tuy nhiên, cùng với quá trình phát triển kinh tế – xã hội gắn với đổi mới và hội nhập quốc tế sâu, rộng, phương thức này bộc lộ một số bất cập như: thiếu sự tách bạch giữa ban hành chính sách và quản lý doanh nghiệp. kinh doanh dẫn đến tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi”, chưa tạo môi trường bình đẳng, công bằng cho mọi thành phần kinh doanh; công tác kiểm tra, giám sát còn buông lỏng, chưa kịp thời ngăn chặn dẫn đến nhiều vi phạm trong doanh nghiệp nhà nước thời gian qua; Các bộ, ngành quá tải ảnh hưởng đến chất lượng kiến tạo chính sách, cải thiện môi trường kinh doanh, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa…

Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Nghị quyết 12-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã xác định các giải pháp khắc phục những bất cập trên, theo đó chủ trương tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn nhà nước và nhà nước. chức năng quản lý doanh nghiệp nhà nước, sớm xóa bỏ chức năng đại diện chủ sở hữu nhà nước của các bộ, địa phương đối với vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp, quốc gia thành viên. thành lập cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước.

Thực hiện các Nghị quyết Đại hội Đảng, Nghị quyết Trung ương, Kết luận của Bộ Chính trị, Nghị quyết của Quốc hội về thành lập cơ quan chuyên trách làm đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Bộ Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 03/02/2018 thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp và Nghị định số 131/2018/NĐ-CP ngày 29/09/2018 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Ủy ban đối với Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp.

Theo đó, Ủy ban là cơ quan thuộc Chính phủ; thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu đối với 19 tập đoàn, tổng công ty nhà nước (trước đây trực thuộc 5 bộ) với tổng vốn chủ sở hữu chiếm gần 63% và tổng tài sản chiếm gần 65,3% tổng số doanh nghiệp nhà nước trong nước.

Sau hơn 4 năm thành lập và hoạt động, dưới sự chỉ đạo thường xuyên, liên tục của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, những nỗ lực của Ủy ban và các doanh nghiệp trực thuộc đã cho thấy những kết quả bước đầu khả quan. Quan thoại.

Cụ thể những kết quả khả quan đó là gì, thưa ông?

Theo đánh giá, có 4 nút thắt đã được tháo gỡ.

Thứ nhất , đã tách chức năng đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước tại doanh nghiệp ra khỏi 5 bộ để các bộ tập trung cho nhiệm vụ quản lý nhà nước; bảo đảm việc ban hành cơ chế, chính sách, pháp luật kịp thời, hiệu quả và nâng cao chất lượng quản lý nhà nước.

Hai là, hình thành cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại 19 tập đoàn, tổng công ty nhà nước hoạt động trong 16 ngành, lĩnh vực quan trọng, then chốt của nền kinh tế. thuộc kinh tế.

Bước đầu tập trung, thống nhất và nâng cao tính chuyên nghiệp, hiệu quả của cơ quan chuyên trách. Mô hình cơ quan chuyên trách là cơ quan nhà nước bảo đảm vai trò của Nhà nước trong việc chỉ đạo doanh nghiệp nhà nước vừa bảo đảm hoạt động sản xuất, kinh doanh có hiệu quả, vừa thực hiện nhiệm vụ chính trị. xã hội.

Khắc phục cơ bản tình trạng một số nhiệm vụ thuộc trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu thực hiện chưa đầy đủ, tồn đọng qua nhiều năm như phê duyệt quỹ tiền lương thực hiện, đánh giá xếp loại doanh nghiệp, đánh giá xếp loại mức độ hoàn thành nhiệm vụ của doanh nghiệp. quản lý…

Đến nay, Ủy ban đã hoàn thành, xử lý hầu hết trong tổng số 259 nhiệm vụ thuộc trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp mà các Bộ đang xử lý dở dang, tồn đọng qua nhiều thời kỳ.

Thứ ba, tiếp nhận và thực hiện đầy đủ nhiệm vụ của cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo xử lý các dự án, doanh nghiệp chậm tiến độ, kém hiệu quả của ngành Công Thương.

Đã tham mưu Ban Chỉ đạo báo cáo Ban Cán sự đảng Chính phủ để báo cáo, đề xuất Bộ Chính trị đồng ý chủ trương đưa 5 dự án, doanh nghiệp ra khỏi danh sách theo dõi của Ban Chỉ đạo, giao doanh nghiệp chủ động thực hiện. xử lý theo thẩm quyền và quy định của pháp luật (năm 2021); 03 dự án, doanh nghiệp sản xuất phân bón được vay vốn để tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo dòng tiền trả nợ ngân hàng, cung ứng sản phẩm phân bón ra thị trường, giải quyết việc làm cho nông dân. công nhân…; đồng thời tiếp tục nghiên cứu, đề xuất hướng giải quyết đối với các dự án, doanh nghiệp còn lại.

Thứ tư, đề cao nguyên tắc tuân thủ pháp luật và bảo toàn, phát triển vốn nhà nước; tăng cường giám sát tài chính doanh nghiệp; giám sát, kiểm soát chặt chẽ việc triển khai các dự án đầu tư lớn, tái cơ cấu, cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước.

Hiện nay các hạng mục thi công của dự án nhà máy thủy điện Ialy mở rộng đang bám sát tiến độ - Ảnh: VGP.
Hiện các hạng mục công trình của Dự án Nhà máy Thủy điện Ialy mở rộng đang bám sát tiến độ – Ảnh: VGP.

Nhiều dự án đầu tư được tháo gỡ khó khăn và triển khai, điển hình là 10 dự án lớn, quan trọng chậm tiến độ nhiều năm với tổng mức đầu tư 259 nghìn tỷ đồng đã triển khai: Thăm dò, khai thác dầu khí 4 lô tại Khu tự trị Nhenhexky – Liên bang Nga, Dự án mở rộng Nhà máy điện Hòa Bình, Dự án mở rộng Nhà máy điện Ialy, Dự án Nhà máy điện Ô Môn IV, Dự án đường 500 KV Vân Phong, Vĩnh Tân, Dự án khai thác hầm lò dưới 150 mỏ than Mạo Khê, Dự án thành phần 3 của nhà máy quốc tế Long Thành sân bay, dự án nhà ga hành khách T3 CHKQT Tân Sơn Nhất, Dự án mở rộng Cảng hàng không Điện Biên, Dự án mở rộng Nhà ga hành khách CHKQT Nội Bài….; tháo gỡ khó khăn để tiếp tục triển khai Dự án Nhà máy Nhiệt điện Thái Bình 2.

Kết quả hoạt động của 19 tập đoàn, tổng công ty sau 4 năm chuyển giao về Ủy ban không bị gián đoạn; hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển liên tục, ổn định, hoàn thành kế hoạch hàng năm; tổng giá trị vốn nhà nước được bảo toàn và phát triển; tổng doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, giá trị vốn đầu tư phát triển thực hiện và thu nhập bình quân của người lao động tăng; tiếp tục giữ vai trò trụ cột trong một số ngành, lĩnh vực, góp phần bảo đảm các cân đối lớn và ổn định kinh tế vĩ mô; góp phần xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng; tạo động lực phát triển các ngành, lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế.

Với kết quả này, theo ông, việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp thời gian tới cần như thế nào?

Kết quả trên đã khẳng định chủ trương thành lập Ủy ban là hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với tính chất, đặc điểm, vị trí, vai trò của DNNN và phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của DNNN. đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước của Đảng và Nhà nước.

Nhất thiết phải tiếp tục phát huy mô hình Ủy ban là cơ quan của Chính phủ như Kết luận số 40-TB/TW của Bộ Chính trị, theo đó chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Ủy ban là hết sức cần thiết. cần được xem xét, hoàn thiện để phù hợp hơn với mô hình, điều kiện thực tế của Ủy ban và hệ thống pháp luật, thể chế có liên quan.

Cụ thể, tập trung hơn vào 4 nhiệm vụ chính gồm: (1) Định hướng, xây dựng và phê duyệt chiến lược, kế hoạch sản xuất, kinh doanh, đầu tư và phát triển doanh nghiệp; (2) Kiểm tra, giám sát, đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp trong việc thực hiện chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh, đầu tư và phát triển; bảo toàn và phát triển vốn nhà nước tại doanh nghiệp; thực hiện nhiệm vụ chính trị do Nhà nước giao; (3) Làm đầu mối phối hợp với các cơ quan liên quan tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong hoạt động của doanh nghiệp; (4) Công tác cán bộ quản lý chủ chốt của doanh nghiệp theo quy định.

Đồng thời, nghiên cứu điều chỉnh quy định của Luật số 69/2014/QH13 theo hướng đẩy mạnh phân công, phân cấp cho Ủy ban và doanh nghiệp được giao quản lý để tăng tính chủ động, tự chịu trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ. nhiệm vụ được giao.

]]>