Miền núi – Doanhnhannews.com https://doanhnhannews.com Trang tin tức Doanh Nhân Tue, 19 Aug 2025 14:00:46 +0000 vi hourly 1 https://wordpress.org/?v=6.7.2 https://cloud.linh.pro/media/2025/08/doanhnhannews.svg Miền núi – Doanhnhannews.com https://doanhnhannews.com 32 32 Đầu tư cho vùng dân tộc thiểu số: Kích cầu phát triển toàn xã hội https://doanhnhannews.com/dau-tu-cho-vung-dan-toc-thieu-so-kich-cau-phat-trien-toan-xa-hoi/ Tue, 19 Aug 2025 14:00:43 +0000 https://doanhnhannews.com/dau-tu-cho-vung-dan-toc-thieu-so-kich-cau-phat-trien-toan-xa-hoi/

Trong những năm gần đây, các xã vùng sâu, vùng xa đã chứng kiến sự thay đổi đáng kể trong cơ sở hạ tầng, với hệ thống điện, đường, trường, trạm được xây dựng và nâng cấp đồng bộ. Những con đường đất đã được bê-tông hóa, nhựa hóa, giúp việc đi lại và giao thương của nhân dân trở nên thuận lợi hơn. Trường học và trạm y tế cũng được xây dựng khang trang, tạo điều kiện cho con em đồng bào được học tập đầy đủ và người dân được chăm sóc sức khỏe tốt hơn.

Việc đầu tư vào vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi không chỉ giúp kích cầu phát triển toàn xã hội mà còn giảm bớt khoảng cách giữa các hộ gia đình giàu và nghèo. Tuy nhiên, để đạt được hiệu quả lâu dài, cần có sự đầu tư chung cho toàn vùng và đầu tư riêng cho từng đối tượng. Ông Điểu Điều, Trưởng ban Dân tộc Hội đồng nhân dân tỉnh Đồng Nai, cho rằng cần có sự đầu tư cho từng hộ gia đình để những hộ nghèo, cận nghèo có động lực vươn lên. Trước mắt, cần đầu tư con giống, nông cụ cho đồng bào. Về lâu dài, cần đầu tư nghề, đầu tư thay đổi tư duy, ý thức cho đồng bào để họ tự vươn lên.

Một cách tiếp cận mới trong xóa nghèo bền vững đã được thực hiện tại xã Lộc Hưng, tỉnh Đồng Nai. Lâm Nhanh, một cán bộ đoàn của xã, đã tiên phong trong chuyển đổi cơ cấu cây trồng để nâng cao giá trị và mở ra hướng đi mới cho địa phương. Nhờ được Quỹ hỗ trợ nông dân hỗ trợ thêm 50 triệu đồng, anh đã chủ động chuyển đổi vùng đất trồng lúa kém hiệu quả sang trồng dưa lưới. Hiện nay, anh đã hỗ trợ thêm 10 hộ dân khác trồng dưa lưới trên diện tích 10 ha.

Tại các xã biên giới như Tân Tiến, Thiện Hưng, Hưng Phước, trước đây hạ tầng y tế thiếu và yếu, nhưng nhờ được đầu tư các nguồn lực, trong đó có nguồn vốn của Chương trình phát triển vùng dân tộc thiểu số và miền núi, đã tạo nên một hệ thống chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân ngày càng hiệu quả và chất lượng. Trạm y tế của xã Hưng Phước đã có đủ hạ tầng kỹ thuật và khối phụ trợ, cũng như đủ thuốc trong danh mục thuốc chữa bệnh chủ yếu sử dụng tại trạm y tế xã theo quy định hiện hành.

Khi hệ thống y tế được đầu tư đồng bộ, người dân vùng sâu, vùng xa có điều kiện tiếp cận các dịch vụ khám, chữa bệnh kịp thời, giảm bớt bệnh tật và nâng cao thể trạng và chất lượng cuộc sống. Qua đó, thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với vùng sâu, vùng xa, góp phần củng cố niềm tin của đồng bào đối với chính quyền.

Thông qua tín dụng ưu đãi, người dân có điều kiện đầu tư vào sản xuất, chăn nuôi, phát triển kinh tế hộ gia đình bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Chị Thị Geo, ở xã Đắk Nhau, năm 2022 được vay 50 triệu đồng từ nguồn vốn chính sách, đã mua một cặp bò giống và làm chuồng trại. Đến nay, đàn bò của chị đã phát triển lên năm con, tạo nguồn thu nhập ổn định và giúp gia đình chị chính thức thoát nghèo.

Những nguồn vốn chính sách của trung ương và địa phương như những cơn ‘mưa dầm’ thấm sâu vào đời sống đồng bào vùng sâu, vùng xa, từng bước thay đổi cuộc sống của người dân. Với sự hỗ trợ và đầu tư từ các cấp chính quyền, người dân vùng sâu, vùng xa đang có cơ hội vươn lên và xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn.

]]>
Thái Nguyên: Phát triển kinh tế – xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi https://doanhnhannews.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/ Tue, 19 Aug 2025 06:29:46 +0000 https://doanhnhannews.com/thai-nguyen-phat-trien-kinh-te-xa-hoi-vung-dan-toc-thieu-so-va-mien-nui/

Trong những năm gần đây, tỉnh Thái Nguyên đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Với nhiều giải pháp đồng bộ và hiệu quả, tỉnh đã cải thiện đáng kể hạ tầng kỹ thuật, văn hóa – xã hội thiết yếu như điện, đường, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa tại các bản làng.

Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.
Bản Tày xã Đồng Phúc dưới nắng ban mai.

Những nỗ lực này không chỉ nâng cao mức sống của người dân mà còn làm thay đổi căn bản tập quán canh tác và bộ mặt bản làng. Các bản làng dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên nay đã có những gam màu tươi sáng với những ngôi nhà mới xây dựng, đường sá được mở rộng và trải bê tông, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu và phát triển kinh tế.

Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.
Truyền dạy đàn tính hát then cho lớp trẻ.

Việc đầu tư có trọng tâm trọng điểm, phù hợp với điều kiện, tiềm năng thế mạnh, phong tục tập quán của đồng bào đã thu được kết quả tích cực. Công tác vận động quần chúng phát huy quyền làm chủ, sự tham gia chủ động của cộng đồng và người dân đã khơi dậy tinh thần nỗ lực vươn lên của đồng bào. Nhờ đó, tỷ lệ hộ nghèo giảm sâu, khoảng cách về mức sống so với bình quân chung của tỉnh từng bước thu hẹp.

Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.
Bản Tèn xã Văn Lăng hứa hẹn là một điểm đến mới.

Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa của các vùng dân tộc có bước phát triển mới. Tỉnh Thái Nguyên cũng đẩy mạnh việc trang bị kiến thức về khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vật tư phân bón, nguồn cây, con giống chuyển đổi cây trồng vật nuôi, phát triển ngành nghề, làng nghề truyền thống.

Hệ thống hạ tầng viễn thông được xây dựng tạo điều kiện cho bà con tiếp cận các nền tảng công nghệ số. Một số sản phẩm nông nghiệp của tỉnh đã có giá trị thương phẩm cao, trong đó chè là cây trồng chủ lực. Nhiều địa phương đã tập trung phát triển và đã cho sản lượng, giá trị thương phẩm cao với các loại cây trồng như na, bưởi, quế…

Sản phẩm truyền thống như dệt, may trang phục dân tộc, mật ong, gạo nếp vải, cốm, miến dong, rượu men lá… đã đáp ứng yêu cầu về chất lượng, thị hiếu người tiêu dùng và đã đạt tiêu chuẩn OCOP.

Bên cạnh những thành tựu, vẫn còn một số khó khăn và thách thức mà tỉnh cần phải vượt qua. Các vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi địa hình trải rộng, mật độ dân cư không tập trung, trình độ sản xuất còn dựa nhiều vào yếu tố tự nhiên, phương thức canh tác giản đơn, giá trị kinh tế thấp, ít cơ hội tiếp cận việc làm phi nông nghiệp.

Cơ sở hạ tầng nhiều xã phía Bắc của tỉnh chưa được đầu tư hoàn thiện. Cơ chế, chính sách chưa đủ hấp dẫn thu hút doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế mạnh đầu tư vào công nghiệp chế biến, liên kết sản xuất theo chuỗi giá trị tại các xã vùng sâu, vùng xa.

Tuy nhiên, bản sắc văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số tại Thái Nguyên vẫn được giữ gìn và phát huy. Những nét đẹp mang giá trị văn hóa truyền thống của đồng bào như ngôn ngữ, trang phục truyền thống, phong tục tập quán, nghi lễ tín ngưỡng, ẩm thực, dân ca dân vũ được các cấp ủy, chính quyền tạo điều kiện cho bà con bảo tồn và phát huy.

Mới đây, tỉnh Thái Nguyên đã ban hành đề án phát triển du lịch cộng đồng với nhiều triển vọng về các điểm đến mới và tạo thêm việc làm cho người dân. Làng du lịch sinh thái nhà sàn Thái Hải, Làng du lịch cộng đồng xóm Mỏ Gà, Làng văn hóa dân tộc bản Quyên… có thể coi là hình mẫu để nâng cao, nhân rộng.

Trong thời gian tới, tỉnh cần tiếp tục quan tâm và có những giải pháp hiệu quả hơn nữa để phát triển kinh tế – xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi một cách bền vững.

]]>
Phát triển kinh tế lâm nghiệp theo chuỗi giá trị: Mở ra tương lai cho ngành rừng https://doanhnhannews.com/phat-trien-kinh-te-lam-nghiep-theo-chuoi-gia-tri-mo-ra-tuong-lai-cho-nganh-rung/ Mon, 04 Aug 2025 01:56:38 +0000 https://doanhnhannews.com/phat-trien-kinh-te-lam-nghiep-theo-chuoi-gia-tri-mo-ra-tuong-lai-cho-nganh-rung/

Lâm nghiệp, một ngành quan trọng trong lĩnh vực nông nghiệp, đang trên đà trở thành ngành xuất khẩu có doanh thu tỷ USD. Tuy nhiên, để đạt mục tiêu tăng trưởng vượt mốc 4,7-5%/năm và tiến tới mức tăng trưởng hai con số trong tương lai, ngành lâm nghiệp cần có những thay đổi đáng kể trong phương thức quản lý, tăng cường ứng dụng công nghệ trong chế biến và phát triển kinh tế lâm nghiệp theo chuỗi giá trị.

Đề án phát triển giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng đến năm 2030, với tầm nhìn đến năm 2050, đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Mục tiêu chính của đề án là phát triển giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng, sử dụng bền vững tài nguyên rừng, tạo việc làm và cải thiện đời sống của đồng bào dân tộc thiểu số, người dân miền núi và những người làm việc trong ngành rừng.

Một trong những mục tiêu quan trọng của đề án là tăng sản lượng gỗ khai thác trong nước để đáp ứng ít nhất 80% nhu cầu nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến gỗ vào năm 2030 và 100% vào năm 2050. Bên cạnh đó, 100% gỗ và sản phẩm gỗ phải được sản xuất từ nguồn nguyên liệu gỗ hợp pháp, đáp ứng yêu cầu của thị trường xuất khẩu và tiêu dùng trong nước.

Các tỉnh có rừng đã triển khai nhiều biện pháp để quản lý và phát triển rừng bền vững. Tại Bắc Giang, các doanh nghiệp đã áp dụng khoa học kỹ thuật vào quản lý giống lâm nghiệp, thâm canh trồng rừng, sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và nuôi trồng thủy sản, góp phần nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng.

Tại tỉnh Cà Mau, kinh tế lâm nghiệp đã phát triển bền vững với năng suất rừng trồng khu vực U Minh Hạ đạt 90-180 m3/ha/chu kỳ từ bốn đến sáu năm. Người dân địa phương đã đa dạng hóa nguồn thu nhập từ các hoạt động chính trong lâm nghiệp như trồng rừng, khai thác, vận chuyển và tiêu thụ lâm sản.

Tuy nhiên, trong bối cảnh xu hướng phòng vệ thương mại toàn cầu đang gia tăng, việc quản lý rừng bền vững và đáp ứng các quy định của thị trường xuất khẩu về xuất xứ và chứng chỉ rừng là vấn đề then chốt để phát triển kinh tế lâm nghiệp bền vững.

Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm cho biết, cả nước hiện có diện tích rừng trồng keo khoảng hơn 1 triệu ha, chiếm hơn 30% tổng diện tích rừng trồng toàn quốc. Đây là nguồn nguyên liệu chính cho các ngành công nghiệp sản xuất giấy và bột giấy, ván nhân tạo, dăm gỗ và sản xuất đồ gỗ phục vụ xuất khẩu.

Để gia tăng giá trị kinh tế lâm nghiệp, việc khai thác gỗ non cần được hạn chế, thay vào đó là để lại thêm từ 5-6 năm, biến nguồn nguyên liệu này trở thành những cánh rừng gỗ lớn, từ đó gia tăng gấp đôi trữ lượng gỗ.

Hiện đại hóa sản xuất và gia tăng chế biến sâu là hướng đi quan trọng để phát triển kinh tế lâm nghiệp. Kế hoạch phát triển rừng trồng sản xuất gỗ lớn giai đoạn 2024-2030 của Bộ Nông nghiệp và Môi trường xác định đến năm 2030, tổng diện tích rừng trồng sản xuất gỗ lớn đạt khoảng 1 triệu ha.

Phó Chủ tịch kiêm Tổng Thư ký Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam Ngô Sỹ Hoài cho rằng, các đơn vị chủ rừng cần nỗ lực tham gia các dự án quản lý rừng bền vững và đạt chứng chỉ rừng bền vững; áp dụng kỹ thuật nuôi dưỡng, chuyển hóa rừng trồng cung cấp gỗ nhỏ thành rừng cung cấp gỗ lớn, nâng cao năng suất và chất lượng rừng trồng.

Thứ trưởng Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Quốc Trị cũng nhấn mạnh, ngành lâm nghiệp đang đứng trước nhiều thách thức khi xu hướng phòng vệ thương mại gia tăng đi kèm với các quy định mới được ban hành về xuất khẩu gỗ và các sản phẩm từ gỗ vào các thị trường: Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước thuộc Liên minh châu Âu.

Trong bối cảnh đó, các bên liên quan cần nâng cao năng lực quản trị rủi ro, phòng vệ thương mại, tăng khả năng tiếp cận vốn, xây dựng chuỗi giá trị bền vững từ khâu trồng rừng, chế biến đến phát triển hệ thống phân phối tại các thị trường trọng điểm.

]]>